Andreas Christensen - trung vệ tài năng người Đan Mạch sinh ngày 10 tháng 4 năm 1996, hiện đang khoác áo Barcelona tại La Liga và đội tuyển quốc gia Đan Mạch. Được mệnh danh là "Maldini của Đan Mạch" nhờ phong cách thi đấu điềm tĩnh và khả năng chuyền bóng chính xác, Christensen đã trải qua hành trình phát triển ấn tượng từ Chelsea, qua giai đoạn cho mượn thành công tại Borussia Mönchengladbach, trước khi gia nhập Barcelona với bản hợp đồng tự do năm 2022. Anh đã đại diện Đan Mạch tại các giải đấu lớn như World Cup 2018 và Euro 2020, nơi anh ghi được siêu phẩm vào lưới Nga.
Christensen bắt đầu sự nghiệp bóng đá tại Skjold Birkerød trước khi gia nhập đội trẻ Brøndby. Là con trai của cựu thủ môn Brøndby Sten Christensen, anh nhanh chóng thể hiện tài năng xuất sắc ở đội trẻ và thu hút sự quan tâm của nhiều câu lạc bộ lớn châu Âu như Arsenal, Chelsea, Manchester City và Bayern München.
Ngày 7 tháng 2 năm 2012, Christensen chuyển đến Chelsea theo dạng chuyển nhượng tự do ở tuổi 15, gần cuối nhiệm kỳ của André Villas-Boas. Anh lần đầu được đưa vào đội hình cao cấp trong trận đấu cuối mùa giải 2012-13 vào ngày 19 tháng 5 năm 2013 trước Everton, nhưng không được ra sân.
Ngày 12 tháng 8 năm 2017, sau khi trở lại từ Borussia Mönchengladbach, Christensen có trận đấu đầu tiên cho Chelsea, vào sân thay cho Jeremie Boga trong trận thua 3-2 trước Burnley. Anh gia hạn hợp đồng với Chelsea thêm bốn năm rưỡi vào ngày 9 tháng 1 năm 2018.
Trong mùa giải 2017-18, Christensen có 40 lần ra sân và được trao giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất của câu lạc bộ. Vào ngày 29 tháng 5 năm 2021, anh vào thay Thiago Silva bị chấn thương và góp phần giúp Chelsea giành chức vô địch UEFA Champions League sau chiến thắng 1-0 trước Manchester City. Ngày 20 tháng 10 năm 2021, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Chelsea trong chiến thắng 4-0 trước Malmö FF ở Champions League.
Ngày 10 tháng 7 năm 2015, Christensen được Chelsea cho Borussia Mönchengladbach mượn với thời hạn hai năm. Anh có trận đấu đầu tiên vào ngày 10 tháng 8 trong trận DFB-Pokal với FC St. Pauli và ra mắt Bundesliga năm ngày sau trong trận thua Borussia Dortmund 4-0.
Ngày 5 tháng 2 năm 2016, Christensen ghi cú đúp đầu tiên tại Bundesliga trong chiến thắng 5-1 trước Werder Bremen. Mùa giải đầu tiên tại Đức rất thành công khi anh được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Mönchengladbach. Mönchengladbach đề nghị mua đứt với giá 14,25 triệu £ nhưng bị Chelsea từ chối.
Trong hai mùa giải thi đấu cho Mönchengladbach, Christensen có tổng cộng 82 lần ra sân và ghi được 7 bàn thắng trên mọi đấu trường.
Vào ngày 4 tháng 7 năm 2022, Christensen ký hợp đồng dài 4 năm với Barcelona tại La Liga theo dạng chuyển nhượng tự do với phí phá vỡ hợp đồng là 500 triệu euro.
Ngày 8 tháng 6 năm 2015, Christensen có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Đan Mạch khi vào sân ở phút 63 trận giao hữu với Montenegro thay cho Pierre-Emile Højbjerg. Ngày 24 tháng 3 năm 2016, anh có trận đấu đầu tiên trong đội hình xuất phát gặp Iceland và Đan Mạch thắng 2-1.
Tại Vòng loại World Cup 2018, Christensen ra sân 6 trận ở Bảng E. Trong trận lượt về play-off với Cộng hòa Ireland, anh ghi bàn gỡ hòa 1-1 giúp Đan Mạch lội ngược dòng thắng 5-1 để giành quyền dự World Cup 2018.
Tại World Cup 2018, anh được huấn luyện viên Age Hareide triệu tập và đá cặp trung vệ với đội trưởng Simon Kjær ở hai trận đầu, sau đó chuyển lên vị trí tiền vệ phòng ngự. Đan Mạch dừng bước ở vòng 16 đội sau trận thua Croatia trên chấm đá luân lưu.
Tại Euro 2020, Christensen lập siêu phẩm bằng cú sút xa giúp Đan Mạch đánh bại Nga 4-1 ở bảng B, qua đó giành vé vào vòng đấu loại trực tiếp.
Christensen là một trung vệ được biết đến với sự điềm tĩnh khi sở hữu bóng và khả năng chuyền bóng chính xác. Anh sở hữu kỹ thuật tốt và tầm nhìn chiến thuật sắc bén, cho phép anh xây dựng lối chơi từ phía sau một cách hiệu quả.
Điểm mạnh: - Khả năng chiếm ưu thế trên không xuất sắc - Chuyền bóng chính xác và khả năng phát động tấn công - Sự điềm tĩnh trong các tình huống căng thẳng - Đọc tình huống tốt và khả năng cắt bóng
Điểm yếu: - Đôi khi mắc lỗi trong những tình huống quan trọng (như trận lượt đi vòng 1/8 Champions League 2017-18 gặp Barcelona)
Christensen thường được sử dụng ở vị trí trung vệ trong sơ đồ 3-4-3 hoặc 4-3-3. Anh cũng có thể chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự khi cần thiết, như đã thể hiện tại World Cup 2018.
Người hâm mộ thường gọi Christensen là "Maldini của Đan Mạch", so sánh với hậu vệ huyền thoại người Ý Paolo Maldini về tài năng chơi bóng và phong cách thi đấu thanh lịch.
Tên CLB | Giai đoạn | Số trận | Bàn thắng | Kiến tạo |
---|---|---|---|---|
Borussia Mönchengladbach | 2015-2017 | 82 | 7 | - |
Chelsea | 2017-2022 | 40+ | 1 | - |
Barcelona | 2022-nay | - | - | - |
Giải đấu | Tên CLB/Tên đội tuyển | Năm | Vị trí |
---|---|---|---|
UEFA Champions League | Chelsea | 2021 | Vô địch |
FA Cup | Chelsea | 2018 | Vô địch |
Thông tin về sở thích cá nhân của Christensen ngoài bóng đá không được đề cập chi tiết trong nguồn thông tin được cung cấp.
Thông tin về các hoạt động từ thiện và xã hội của Christensen không được đề cập trong nguồn thông tin được cung cấp.
Thông tin về các hoạt động kinh doanh và đầu tư của Christensen không được đề cập trong nguồn thông tin được cung cấp.
Christensen được đánh giá cao bởi các huấn luyện viên. HLV Antonio Conte của Chelsea từng khen ngợi anh thể hiện "sự trưởng thành vượt bậc" và tin tưởng rằng anh là cầu thủ cho hiện tại và tương lai của Chelsea trong 10-14 năm tới, thậm chí có thể trở thành đội trưởng tương lai của câu lạc bộ.
Tên đầy đủ | Andreas Christensen |
Ngày sinh | 10/04/1996 (29 Tuổi) |
Chiều cao | 187 cm |
Cân Nặng | 78 kg |
Vị trí | Hậu vệ |
Chân Thuận | Phải |
Trạng thái | Đang Thi Đấu |
Đội bóng hiện tại | FC Barcelona |
Hợp đồng đến | 04/07/2022 |
Số áo | 6 |
Mùa giải | CLB | Giải đấu | Danh hiệu |
---|---|---|---|
2024-2025 | FC Barcelona | VĐQG Tây Ban Nha | Winner |
2025 | FC Barcelona | Siêu Cúp Tây Ban Nha | Winner |
2023-2024 | FC Barcelona | VĐQG Tây Ban Nha | Runner-up |
2024 | FC Barcelona | Siêu Cúp Tây Ban Nha | Runner-up |
2023 | FC Barcelona | Giao Hữu CLB | Runner-up |
2022-2023 | FC Barcelona | VĐQG Tây Ban Nha | Winner |
2023 | FC Barcelona | Siêu Cúp Tây Ban Nha | Winner |
2021-2022 | Chelsea | FA Cup Anh | Runner-up |
2021-2022 | Chelsea | Cúp Liên Đoàn Anh | Runner-up |
2021 | Chelsea | Vô địch thế giới (CLB) | Winner |
2021-2022 | Chelsea | Siêu Cúp Châu Âu | Winner |
2020-2021 | Chelsea | C1 Châu Âu | Winner |
2020-2021 | Chelsea | FA Cup Anh | Runner-up |
Ngày | Từ | Đến | Hình thức | Giá trị chuyển nhượng |
---|---|---|---|---|
04/07/2022 | Chelsea | FC Barcelona | Free Transfer | 0 € |
30/06/2017 | Borussia Mönchengladbach | Chelsea | End of loan | 0 € |
10/07/2015 | Chelsea | Borussia Mönchengladbach | Loan | 0 € |
01/07/2015 | Chelsea U21 | Chelsea | Transfer | 0 € |
01/07/2013 | Chelsea U18 | Chelsea U21 | Transfer | 0 € |
Mùa giải | CLB | Giải đấu | 👕 | ⚽ | 🅰 | 🟥 | 🟨 |
---|---|---|---|---|---|---|---|
2024-2025 | FC Barcelona | C1 Châu Âu | 15 | - | - | - | - |
2024-2025 | FC Barcelona | VĐQG Tây Ban Nha | 15 | - | - | - | 3 |
2024-2025 | FC Barcelona | Cúp nhà vua Tây Ban Nha | 15 | - | - | - | - |
2024-2025 | FC Barcelona | Copa Catalunya Tây Ban Nha | 15 | - | - | - | - |
2025 | FC Barcelona | Siêu Cúp Tây Ban Nha | 15 | - | - | - | - |
2024 | Denmark | Giao Hữu Quốc Tế | - | - | - | - | - |