David Alaba là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo sinh ngày 24 tháng 6 năm 1992. Hiện tại, anh đang thi đấu cho câu lạc bộ Real Madrid tại La Liga và là đội trưởng của đội tuyển quốc gia Áo. Với khả năng thi đấu đa năng ở nhiều vị trí, Alaba chủ yếu chơi ở vị trí hậu vệ trái hoặc trung vệ. Trong sự nghiệp rực rỡ của mình, anh đã giành được 27 danh hiệu cùng Bayern Munich trong 13 năm gắn bó, bao gồm 10 chức vô địch Bundesliga và 2 UEFA Champions League. Tại Real Madrid, anh tiếp tục thành công với các danh hiệu La Liga, UEFA Champions League và nhiều giải đấu khác. Ở cấp độ đội tuyển, Alaba là cầu thủ trẻ thứ hai của Áo ra mắt đội tuyển quốc gia và đã có hơn 90 lần khoác áo đội tuyển, từng được bầu chọn là cầu thủ bóng đá Áo của năm tám lần.
Alaba sinh ra tại Viên và bắt đầu sự nghiệp của mình tại SV Aspern, một câu lạc bộ địa phương tại Aspern, trước khi đến đội trẻ của FK Austria Wien vào năm 10 tuổi. Tháng 4 năm 2008, anh đã có mặt trên băng ghế dự bị của đội hình một tại Giải vô địch bóng đá Áo. Anh đã có năm trận cho đội dự bị của Austria Wien trước khi chuyển đến Bayern München vào mùa hè năm 2008.
Anh bắt đầu thi đấu cho các đội U-17 và U-19 của Bayern München trước khi được lên chơi tại đội dự bị của đội bóng này trong mùa giải 2009–10. Anh có trận đấu đầu tiên tại 3. Liga vào tháng 8 năm 2009 và có bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp cho FC Bayern München II vào ngày 29 tháng 8 năm 2009.
Ngày 10 tháng 2 năm 2010, anh được vào sân ở phút thứ 59 thay cho Christian Lell trong trận đấu với SpVgg Greuther Fürth tại Cúp bóng đá Đức (DFB-Pokal), để trở thành cầu thủ trẻ nhất của Bayern ra sân tại một giải đấu ở 17 tuổi và 232 ngày. Sau đó 1 tháng, vào lúc 17 tuổi, 8 tháng và 13 ngày, anh có trận đấu đầu tiên tại UEFA Champions League với ACF Fiorentina.
Tháng 1 năm 2011, Alaba đến TSG 1899 Hoffenheim theo hợp đồng cho mượn đến hết mùa giải 2010-11. Tại đây anh có bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga trong trận hòa 2-2 với FC St. Pauli.
Alaba trở về Bayern vào đầu mùa giải 2011–12 và bắt đầu có được vị trí chính thức. Ngày 23 tháng 10 năm 2011, anh có bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga cho Bayern trong trận thua 1–2 trước Hannover 96. Anh có mặt trong trận bán kết UEFA Champions League với Real Madrid ngày 25 tháng 4 năm 2012 và chính là người sút thành công quả phạt đền đầu tiên trong loạt sút luân lưu mở ra chiến thắng chung cuộc cho Bayern.
Ngày 2 tháng 4 năm 2013, Alaba ghi bàn thắng nhanh thứ bảy trong lịch sử Champions League (25,02 giây) trong chiến thắng 2-0 trước Juventus. Ngày 25 tháng 5 năm 2013, anh thi đấu đủ 90 phút trong trận chung kết UEFA Champions League 2013 với Borussia Dortmund để trở thành cầu thủ Áo đầu tiên thi đấu trận chung kết của giải đấu này.
Trong những năm tiếp theo, Alaba tiếp tục khẳng định vị thế của mình tại Bayern. Anh được người hâm mộ bầu chọn vào Đội hình tiêu biểu của năm 2014 trên trang web UEFA.com ở vị trí hậu vệ trái, và đây là lần thứ hai liên tiếp anh có được vinh dự này.
Dưới thời huấn luyện viên Niko Kovač và sau đó là Hans-Dieter Flick, Alaba được chuyển sang vị trí trung vệ khi Niklas Süle và Lucas Hernandez đều bị chấn thương dài hạn. Anh thích nghi tốt với vị trí mới và tiếp tục thể hiện sự đa năng trong lối chơi.
Alaba quyết định rời Bayern München khi hợp đồng của anh đáo hạn vào ngày 30 tháng 6 năm 2021. Sau 13 năm thi đấu cho Hùm xám xứ Bavaria, Alaba ra sân 430 trận, ghi 33 bàn và giành 27 danh hiệu, trong đó có tới 10 chức vô địch Bundesliga và hai UEFA Champions League.
Ngày 28 tháng 5 năm 2021, đội bóng Tây Ban Nha Real Madrid thông báo đã ký hợp đồng năm năm với Alaba và anh sẽ ra mắt Real sau Euro 2020. Theo truyền thông Tây Ban Nha, Alaba sẽ lĩnh lương 13,5 triệu USD mỗi năm tại Bernabéu.
Alaba từng là thành viên của các đội U-17, U-19 và U-21 Áo trước khi được triệu tập lên đội tuyển quốc gia.
Tháng 10 năm 2009, anh được triệu tập vào đội tuyển Áo cho trận đấu với đội tuyển Pháp. Việc được ra sân trong trận đấu này giúp anh trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử khoác áo đội tuyển Áo. Anh có bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Áo vào ngày 16 tháng 10 năm 2012 trong chiến thắng 4-0 trước Kazakhstan tại vòng loại World Cup 2014.
Alaba đã đại diện cho đội tuyển Áo tham dự UEFA Euro 2016 và UEFA Euro 2020. Tại Euro 2016, đội tuyển Áo đã rời giải ngay sau vòng bảng với chỉ vỏn vẹn 1 điểm. Tại Euro 2020, với tư cách đội trưởng, Alaba đã dẫn dắt đội tuyển Áo đến trận thắng đầu tiên tại Giải vô địch bóng đá châu Âu sau ba lần tham dự giải.
Alaba đã có hơn 90 lần khoác áo đội tuyển và là một trong những cầu thủ quan trọng nhất của bóng đá Áo trong thế hệ của mình.
Điểm mạnh của Alaba là anh có khả năng chơi cực kì đa năng. Vị trí ban đầu của anh là ở hàng tiền vệ (tại Bayern München II), nhưng sau đó anh được huấn luyện viên Louis van Gaal kéo xuống chơi ở hậu vệ trái, và thành danh ở vị trí này. Dưới thời huấn luyện viên Pep Guardiola tại Bayern, có những thời điểm huấn luyện viên này còn bố trí Alaba chơi ở vị trí trung vệ lệch về bên trái trong sơ đồ ba hậu vệ.
Trong những pha xử lý của mình, Alaba luôn xử lý rất đơn giản nhưng vẫn đảm bảo sự hiệu quả, an toàn cao. Alaba còn có khả năng hỗ trợ tấn công tốt. Tại Bayern, dù là một hậu vệ trái nhưng anh luôn có xu hướng dâng cao tấn công biên, đồng thời thường xuyên di chuyển vào trung lộ để giúp Bayern tạo ưu thế kiểm soát bóng.
Việc hay di chuyển vào trung lộ giúp anh kết nối tốt hơn với cả những tiền vệ trung tâm, tạo ra những pha bật tường trước khi lợi dụng tốc độ luồn ra sau lưng tuyến phòng ngự đội bạn. Anh còn nổi bật ở kỹ năng sút phạt trực tiếp và đá phạt đền.
Cựu danh thủ Matthias Sammer nhận xét dù còn trẻ tuổi, Alaba đã là một trong số những hậu vệ trái xuất sắc nhất trên thế giới. Một cựu danh thủ khác là Stefan Effenberg thậm chí so sánh anh với những huyền thoại như Roberto Carlos, Paolo Maldini và Andreas Brehme.
Tên CLB | Giai đoạn | Số trận | Bàn thắng | Kiến tạo |
---|---|---|---|---|
FK Austria Wien | 2008 | 5 | 0 | 0 |
Bayern Munich | 2009-2021 | 430 | 33 | - |
Real Madrid | 2021-nay | - | - | - |
Giải đấu | Tên CLB/Tên đội tuyển | Năm | Vị trí |
---|---|---|---|
Bundesliga | Bayern Munich | 2009–10, 2012–13, 2013–14, 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2018–19, 2019–20, 2020–21 | Vô địch |
DFB-Pokal | Bayern Munich | 2009–10, 2012–13, 2013–14, 2015–16, 2018–19, 2019–20 | Vô địch |
UEFA Champions League | Bayern Munich | 2012–13, 2019–20 | Vô địch |
UEFA Champions League | Real Madrid | 2021–22, 2023–24 | Vô địch |
La Liga | Real Madrid | 2021–22, 2023–24 | Vô địch |
UEFA Super Cup | Bayern Munich | 2013, 2020 | Vô địch |
UEFA Super Cup | Real Madrid | 2022, 2024 | Vô địch |
FIFA Club World Cup | Bayern Munich | 2013, 2020 | Vô địch |
FIFA Club World Cup | Real Madrid | 2022 | Vô địch |
Alaba sinh ra trong một gia đình có mẹ, bà Gina là người Philippines và cha, ông George Alaba, là người Nigeria. Cha anh là một ca sĩ nhạc rap và sau đó là DJ, là người da đen đầu tiên phục vụ trong Quân đội Áo còn mẹ anh là một cựu hoa hậu và làm nghề y tá.
Tôn giáo của anh là Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm. Alaba luôn duy trì mối quan hệ tốt với cộng đồng và tham gia các hoạt động xã hội tích cực.
Với tư cách là một trong những cầu thủ nổi tiếng nhất của Áo, Alaba luôn duy trì mối quan hệ chuyên nghiệp với truyền thông và được đánh giá cao về thái độ tích cực trong các cuộc phỏng vấn.
Tên đầy đủ | David Olatukunbo Alaba |
Ngày sinh | 24/06/1992 (33 Tuổi) |
Chiều cao | 180 cm |
Cân Nặng | 78 kg |
Vị trí | Hậu vệ |
Chân Thuận | Trái |
Trạng thái | Đang Thi Đấu |
Đội bóng hiện tại | Real Madrid, FC Bayern München |
Số áo | 4 |
Mùa giải | CLB | Giải đấu | Danh hiệu |
---|---|---|---|
2024-2025 | Real Madrid | VĐQG Tây Ban Nha | Runner-up |
2025 | Real Madrid | Siêu Cúp Tây Ban Nha | Runner-up |
2024 | Real Madrid | Vô địch thế giới (CLB) | Winner |
2024-2025 | Real Madrid | Siêu Cúp Châu Âu | Winner |
2023-2024 | Real Madrid | C1 Châu Âu | Winner |
2023-2024 | Real Madrid | VĐQG Tây Ban Nha | Winner |
2024 | Real Madrid | Siêu Cúp Tây Ban Nha | Winner |
2022-2023 | Real Madrid | VĐQG Tây Ban Nha | Runner-up |
2022-2023 | Real Madrid | Cúp nhà vua Tây Ban Nha | Winner |
2022 | Real Madrid | Vô địch thế giới (CLB) | Winner |
2023 | Real Madrid | Siêu Cúp Tây Ban Nha | Runner-up |
2022-2023 | Real Madrid | Siêu Cúp Châu Âu | Winner |
2021-2022 | Real Madrid | C1 Châu Âu | Winner |
2021-2022 | Real Madrid | VĐQG Tây Ban Nha | Winner |
2022 | Real Madrid | Siêu Cúp Tây Ban Nha | Runner-up |
2020-2021 | FC Bayern München | VĐQG Đức | Winner |
2020 | FC Bayern München | Vô địch thế giới (CLB) | Winner |
2021 | FC Bayern München | Siêu Cúp Đức | Runner-up |
2020-2021 | FC Bayern München | Siêu Cúp Châu Âu | Winner |
Ngày | Từ | Đến | Hình thức | Giá trị chuyển nhượng |
---|---|---|---|---|
01/07/2021 | FC Bayern München | Real Madrid | Free Transfer | 0 € |
30/06/2011 | TSG Hoffenheim | FC Bayern München | End of loan | 0 € |
01/01/2011 | FC Bayern München | TSG Hoffenheim | Loan | 0 € |
01/07/2010 | Bayern München II | FC Bayern München | Transfer | 0 € |
01/01/2008 | - | Austria Wien II | Transfer | 0 € |
Mùa giải | CLB | Giải đấu | 👕 | ⚽ | 🅰 | 🟥 | 🟨 |
---|---|---|---|---|---|---|---|
2025 | Real Madrid | FIFA Club World Cup | 4 | - | - | - | - |
2024-2025 | Real Madrid | C1 Châu Âu | 4 | - | - | - | 1 |
2024-2025 | Real Madrid | VĐQG Tây Ban Nha | 4 | - | - | - | 1 |
2024-2025 | Real Madrid | Cúp nhà vua Tây Ban Nha | 4 | - | - | - | - |
2025 | Real Madrid | Siêu Cúp Tây Ban Nha | 4 | - | - | - | - |
2024 | Real Madrid | Vô địch thế giới (CLB) | 4 | - | - | - | - |