Luiz Felipe Scolari, sinh ngày 9 tháng 11 năm 1948 tại Passo Fundo, Rio Grande do Sul, Brasil, là một trong những huấn luyện viên thành công nhất trong lịch sử bóng đá thế giới. Được biết đến với biệt danh "Felipão" (Phil lớn), ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp huấn luyện kéo dài hơn 4 thập kỷ. Thành tích nổi bật nhất của Scolari là đưa đội tuyển Brasil đến chức vô địch World Cup 2002, cùng với việc dẫn dắt đội tuyển Bồ Đào Nha đến trận chung kết Euro 2004 và bán kết World Cup 2006. Trong sự nghiệp cầu thủ, ông từng thi đấu ở vị trí hậu vệ cho các câu lạc bộ như Caxias, Juventude, Novo Hamburgo và CSA trước khi chuyển sang làm huấn luyện viên từ năm 1982.
Scolari bắt đầu sự nghiệp huấn luyện viên tại CSA năm 1982, ngay sau khi giã từ sự nghiệp cầu thủ. Ngay mùa giải đầu tiên, ông đã giúp câu lạc bộ này giành danh hiệu vô địch bang Alagoano, khởi đầu ấn tượng cho sự nghiệp cầm quân.
Từ 1983 đến 1987, Scolari dẫn dắt một loạt các câu lạc bộ khác bao gồm Juventude (2 lần), Brasil de Pelotas và Al-Shabab của Ả Rập Xê Út, tích lũy kinh nghiệm và hoàn thiện phong cách huấn luyện.
Năm 1987, ông trở thành huấn luyện viên của Grêmio và giành danh hiệu vô địch bang Gaúcho cùng năm đó. Sau giai đoạn làm việc tại Kuwait, ông trở về Grêmio năm 1993 và có 3 năm thành công rực rỡ. Trong thời gian này, ông giành 6 danh hiệu quan trọng, bao gồm Copa Libertadores năm 1995 và vô địch quốc gia Brasil năm 1996. Grêmio còn lọt vào trận chung kết Intercontinental Cup nhưng để thua Ajax Amsterdam trong loạt sút luân lưu.
Năm 1988, Scolari đến Kuwait dẫn dắt câu lạc bộ Al Qadisiya Kuwait và giành danh hiệu vô địch Kuwait Emir Cup năm 1989. Ông cũng dẫn dắt đội tuyển Kuwait và giành Gulf Cup năm 1990 trước khi trở về Brasil do tình hình chiến tranh.
Sau khi rời Kuwait, Scolari dẫn dắt Criciúma và giành Copa do Brasil năm 1991.
Năm 1997, Scolari có thời gian ngắn tại Nhật Bản với Júbilo Iwata trong J.League, tuy nhiên chỉ sau 11 trận, ông đã quyết định trở về Brasil.
Từ 1997-2000, Scolari có giai đoạn thành công tại Palmeiras. Trong 3 năm, ông đem về cho câu lạc bộ nhiều danh hiệu quan trọng bao gồm Copa do Brasil, Mercosur Cup và Copa Libertadores sau chiến thắng trước Deportivo Cali. Tại Intercontinental Cup 1999, Palmeiras trở thành á quân sau khi thua Manchester United. Nhờ những thành tích này, ông được bầu chọn là huấn luyện viên xuất sắc nhất Nam Mỹ 1999. Sau đó, ông trở lại Palmeiras lần thứ hai từ 2010-2012.
Từ ngày 1 tháng 7 năm 2008, Scolari chính thức trở thành huấn luyện viên của Chelsea FC, thay thế Avram Grant. Bản hợp đồng đầu tiên của ông là tiền vệ Deco. Dưới thời Scolari, Chelsea có chiến thắng 5-0 trước Middlesbrough và chuỗi 8 trận thắng liên tiếp trên sân khách. Tuy nhiên, thất bại 1-0 trước Liverpool ngày 26 tháng 10 năm 2008 đã chấm dứt chuỗi 86 trận bất bại trên sân Stamford Bridge. Sau những kết quả không như mong đợi, ông bị sa thải ngày 10 tháng 2 năm 2009 với thành tích 20 thắng, 11 hòa và 5 thua trong 36 trận.
Ngày 8 tháng 6 năm 2009, Scolari ký hợp đồng dẫn dắt FC Bunyodkor của Uzbekistan với mức lương 13 triệu euro/năm, trở thành huấn luyện viên được trả lương cao nhất thế giới lúc bấy giờ. Ông giúp Bunyodkor vô địch giải quốc gia Uzbekistan nhưng bị loại ở tứ kết AFC Champions League trước Pohang Steelers. Ông từ chức vào ngày 29 tháng 5 năm 2010.
Scolari dẫn dắt đội tuyển Kuwait và giành Cúp bóng đá Vùng Vịnh năm 1990.
Tháng 6 năm 2001, Scolari trở thành huấn luyện viên trưởng Brasil. Mặc dù trận đầu tiên thua Uruguay 1-0, Brasil vẫn giành quyền dự World Cup 2002. Tại World Cup 2002, sau quyết định gây tranh cãi khi loại Romário, ông dẫn dắt Brasil toàn thắng vòng bảng và lần lượt đánh bại Bỉ, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ để vào chung kết. Hai bàn thắng của Ronaldo trong trận chung kết đã mang về chức vô địch thế giới lần thứ 5 cho Brasil.
Ông trở lại dẫn dắt Brasil từ 2012, thay thế Mano Menezes. Tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2013, Brasil đánh bại Tây Ban Nha 3-0 để giành chức vô địch. Tuy nhiên, tại World Cup 2014 trên sân nhà, Brasil bị Đức đánh bại với tỷ số kỷ lục 7-1 ở bán kết và thua Hà Lan 0-3 ở trận tranh hạng ba. Scolari bị sa thải sau giải đấu.
Từ 2003, Scolari dẫn dắt đội tuyển Bồ Đào Nha với mục tiêu vô địch Euro 2004 trên sân nhà. Tại Euro 2004, Bồ Đào Nha vượt qua vòng bảng, đánh bại Anh sau loạt sút luân lưu ở tứ kết và thắng Hà Lan 2-1 ở bán kết để vào chung kết. Tuy nhiên, họ thua Hy Lạp 0-1 trong trận chung kết.
Tại World Cup 2006, Scolari đưa Bồ Đào Nha vào bán kết sau khi loại Hà Lan và Anh, nhưng thua Pháp 1-0 ở bán kết và Đức 3-1 ở trận tranh hạng ba để giành vị trí thứ 4. Tại Euro 2008, Bồ Đào Nha bị loại ở tứ kết khi thua Đức 3-2.
Scolari được biết đến với phong cách huấn luyện thực dụng và linh hoạt. Ông có khả năng đọc trận đấu tốt và thường xuyên điều chỉnh chiến thuật phù hợp với từng đối thủ. Scolari cũng nổi tiếng với việc xây dựng tinh thần đoàn kết mạnh mẽ trong đội hình.
Điểm mạnh của Scolari là khả năng tạo động lực cho cầu thủ và xây dựng lối chơi phòng ngự chắc chắn kết hợp với tấn công hiệu quả. Tuy nhiên, bản tính nóng nảy đôi khi gây ra những rắc rối không đáng có, như vụ việc đấm cầu thủ Ivica Dragutinovic của Serbia năm 2007.
Scolari thường ưa chuộng sơ đồ 4-4-2 hoặc 4-2-3-1, tập trung vào việc cân bằng giữa phòng ngự và tấn công. Ông có khả năng phát huy tối đa tiềm năng của các cầu thủ ngôi sao.
Trong số các huấn luyện viên cùng thời, Scolari được đánh giá là một trong những chiến lược gia xuất sắc nhất, đặc biệt trong các giải đấu lớn. Phong cách của ông có nhiều điểm tương đồng với các huấn luyện viên thành công khác như Vicente del Bosque hay Fabio Capello.
Tên CLB | Giai đoạn | Số trận | Bàn thắng | Kiến tạo |
---|---|---|---|---|
Caxias | Không rõ | Không rõ | Không rõ | Không rõ |
Juventude | Không rõ | Không rõ | Không rõ | Không rõ |
Novo Hamburgo | Không rõ | Không rõ | Không rõ | Không rõ |
CSA | Không rõ | Không rõ | Không rõ | Không rõ |
Giải đấu | Tên CLB/Tên đội tuyển | Năm | Vị trí |
---|---|---|---|
Vô địch bang Alagoano | CSA | 1982 | Vô địch |
Kuwait Emir Cup | Al Qadisiya Kuwait | 1989 | Vô địch |
Cúp bóng đá Vùng Vịnh | Đội tuyển Kuwait | 1990 | Vô địch |
Copa do Brasil | Criciúma | 1991 | Vô địch |
Vô địch bang Gaúcho | Grêmio | 1987, 1995, 1996 | Vô địch |
Copa do Brasil | Grêmio | 1994 | Vô địch |
Copa Libertadores | Grêmio | 1995 | Vô địch |
Campeonato Brasileiro Série A | Grêmio | 1996 | Vô địch |
Recopa Sudamerican | Grêmio | 1996 | Vô địch |
Copa do Brasil | Palmeiras | 1998 | Vô địch |
Copa Mercosur | Palmeiras | 1998 | Vô địch |
Copa Libertadores | Palmeiras | 1999 | Vô địch |
Torneio Rio-São Paulo | Palmeiras | 2000 | Vô địch |
Copa Sul-Minas | Cruzeiro | 2001 | Vô địch |
World Cup | Đội tuyển Brasil | 2002 | Vô địch |
Euro | Đội tuyển Bồ Đào Nha | 2004 | Á quân |
Cúp Liên đoàn các châu lục | Đội tuyển Brasil | 2013 | Vô địch |
Scolari được bầu chọn là huấn luyện viên bóng đá xuất sắc nhất Nam Mỹ năm 1999 nhờ những thành tích với Palmeiras.
Scolari từng là huấn luyện viên được trả lương cao nhất thế giới với mức 13 triệu euro/năm tại FC Bunyodkor.
Scolari có mối quan hệ phức tạp với truyền thông. Bản tính nóng nảy thường gây cho ông nhiều rắc rối, như vụ việc đấm cầu thủ Dragutinovic năm 2007. Sau sự việc này, ông đã phải gửi lời xin lỗi đến người dân Bồ Đào Nha và bị phạt tổng cộng hơn 67.000 USD từ Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha và UEFA. Ông cũng thẳng thắn chấp nhận trách nhiệm sau thất bại 1-7 trước Đức tại World Cup 2014, gọi đây là "trận thua tồi tệ nhất của đội tuyển quốc gia Brasil".
Tên đầy đủ | Luiz Felipe Ramos Marchi |
Ngày sinh | 22/03/1997 (28 Tuổi) |
Chiều cao | 187 cm |
Cân Nặng | 80 kg |
Vị trí | Hậu vệ |
Chân Thuận | Phải |
Trạng thái | Đang Thi Đấu |
Đội bóng hiện tại | Olympique Marseille, Rayo Vallecano |
Số áo | 5 |
Mùa giải | CLB | Giải đấu | Danh hiệu |
---|---|---|---|
2024-2025 | Al Ittihad | VĐQG Ả Rập Saudi | Winner |
2024-2025 | Olympique Marseille | VĐQG Pháp | Runner-up |
2024 | Al Ittihad | Siêu Cúp Ả Rập Saudi | Runner-up |
2023 | Al Ittihad | Siêu Cúp Ả Rập Saudi | Winner |
2021-2022 | Real Betis | Cúp nhà vua Tây Ban Nha | Winner |
Ngày | Từ | Đến | Hình thức | Giá trị chuyển nhượng |
---|---|---|---|---|
07/07/2025 | Olympique Marseille | Rayo Vallecano | Transfer | NaN € |
07/01/2025 | Al Ittihad | Olympique Marseille | Free Transfer | 0 € |
07/09/2023 | Real Betis | Al Ittihad | Transfer | 25,000,000 € |
04/07/2022 | Lazio | Real Betis | Free Transfer | 0 € |
30/06/2017 | Salernitana | Lazio | End of loan | 0 € |
31/08/2016 | Lazio | Salernitana | Loan | 0 € |
30/08/2016 | Ituano | Lazio | Transfer | 750,000 € |
Mùa giải | CLB | Giải đấu | 👕 | ⚽ | 🅰 | 🟥 | 🟨 |
---|---|---|---|---|---|---|---|
2024-2025 | Al Ittihad | VĐQG Ả Rập Saudi | 5 | - | - | - | - |
2024-2025 | Olympique Marseille | Cúp Quốc Gia Pháp | 4 | - | - | - | - |
2024-2025 | Olympique Marseille | VĐQG Pháp | - | - | - | - | - |
2024 | Al Ittihad | Giao Hữu CLB | 5 | - | - | - | - |
2023-2024 | Al Ittihad | Cúp Nhà Vua Ả Rập Saudi | 5 | - | - | - | - |
2023-2024 | Al Ittihad | VĐQG Ả Rập Saudi | 5 | - | - | - | - |