Estadio de Mestalla
Valencia Club de Fútbol, thường được gọi là Valencia CF hoặc đơn giản là Valencia, là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở tại Valencia, Tây Ban Nha, được thành lập vào năm 1919. Câu lạc bộ thi đấu tại sân vận động Mestalla với sức chứa 49.500 chỗ ngồi kể từ năm 1923 và hiện đang tham gia tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Tây Ban Nha (La Liga). Valencia đã khẳng định vị thế của mình với 6 chức vô địch La Liga, 8 chức vô địch Cúp Nhà vua Tây Ban Nha và 2 Siêu cúp Tây Ban Nha. Ở đấu trường châu Âu, họ sở hữu bộ sưu tập danh hiệu ấn tượng với 2 danh hiệu Inter-Cities Fairs Cup, 1 Cúp UEFA, 1 UEFA Cup Winners' Cup, 2 Siêu cúp châu Âu và 1 UEFA Intertoto Cup, đồng thời từng 2 lần liên tiếp vào chung kết UEFA Champions League vào các năm 2000 và 2001.
Valencia Club de Fútbol được thành lập vào năm 1919 với vị chủ tịch đầu tiên là Octavio Augusto Milego Díaz, người được chọn một cách ngẫu nhiên bằng cách tung đồng xu. Câu lạc bộ chơi trận đấu chính thức đầu tiên trên sân khách vào ngày 21 tháng 3 năm 1919, và họ đã để thua đối thủ Valencia Gimnástico với tỉ số 0-1. Valencia CF chuyển đến sân vận động Mestalla vào năm 1923, trước đó họ chơi trên khu đất Algirós.
Valencia CF chơi trận đấu đầu tiên trên sân Mestalla gặp đối thủ Castellón Castalia với kết quả hòa 0-0. Trong trận đấu lại vào ngày hôm sau, Valencia giành chiến thắng với tỉ số 1-0. Valencia CF đoạt chức vô địch vùng vào năm 1923, và giành quyền tham dự cúp Nhà vua lần đầu tiên trong lịch sử.
Cuộc nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939) đã ngăn cản bước tiến của Valencia. Phải cho tới năm 1941, đội bóng mới giành được danh hiệu đầu tiên là chức vô địch cúp Nhà vua sau khi đánh bại RCD Espanyol trong trận chung kết. Trong mùa giải 1941-1942, Valencia CF đã giành chức vô địch Tây Ban Nha lần đầu tiên. Mặc dù khi đó chiến thắng ở cúp Nhà vua danh tiếng hơn La Liga nhưng câu lạc bộ vẫn giữ vững sự ổn định để giành thêm chức vô địch La Liga vào các mùa giải 1943-1944, cũng như 1946-1947.
Trong thập niên 50, Valencia thất bại trong việc đạt được những danh hiệu lớn như thập niên trước. Sự cơ cấu lại câu lạc bộ dẫn đến việc sân vận động Mestalla được mở rộng thành 45.000 chỗ ngồi. Trong đội hình của câu lạc bộ khi đó cũng có một số ngôi sao người Tây Ban Nha và người nước ngoài. Nổi bật trong đó là cầu thủ quốc tế người Tây Ban Nha Antonio Puchades và tiền đạo người Hà Lan Faas Wilkes. Trong mùa giải 1952-1953, Valencia CF kết thúc ở vị trí thứ 2 tại La Liga, và ở mùa giải tiếp theo câu lạc bộ giành chiến thắng ở Cúp Nhà vua.
Ở những năm đầu thập niên 60, trong khi thi đấu khá xoàng xĩnh tại giải trong nước, thì Valencia CF lại giành được cúp UEFA. Trong mùa giải 1961-1962, Valencia đánh bại một đội bóng khác của Tây Ban Nha là FC Barcelona trong trận chung kết với tổng tỉ số sau 2 lượt trận đi và về là 7-3. Ở mùa giải tiếp theo 1962-1963, Valencia gặp một đội bóng của Croatia là Dinamo Zagreb, và họ lại giành chiến thắng với tổng tỉ số 4-1. Valencia lần thứ 3 liên tiếp có mặt trong trận chung kết cúp C2 ở mùa giải 1963-1964, nhưng lần này họ đã bị đánh bại bởi đội bóng đồng hương là Real Zaragoza với tỉ số 1-2.
Năm 1982, câu lạc bộ chỉ định Miljan Miljanic là huấn luyện viên trưởng. Sau một mùa giải đáng thất vọng, Valencia đứng thứ 17 và phải đối mặt với khả năng xuống hạng khi giải đấu chỉ còn 7 vòng đấu nữa là kết thúc. Koldo Aguirre thay thế Miljanic làm huấn luyện viên trưởng, và Valencia đã may mắn đoạt được vừa đủ số điểm để trụ hạng năm đó. Trong 2 mùa giải tiếp theo 1983-1984 và 1984-1985, câu lạc bộ rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Cuối cùng Valencia CF đứng ở vị trí cuối bảng và xuống hạng khi mùa giải 1985-1986 kết thúc.
Arturo Tuzón trở thành vị tân chủ tịch của câu lạc bộ, và ông đã giúp cho Valencia CF trở lại với La Liga. Alfredo Di Stéfano trở lại làm huấn luyện viên vào năm 1986, ngay ở mùa giải đó Valencia giành quyền lên hạng. Di Stéfano giữ chức huấn luyện viên đến mùa giải 1987-1988, mùa giải mà Valencia kết thúc ở vị trí thứ 14 ở La Liga.
Huấn luyện viên người Italia Claudio Ranieri là người chấm dứt quãng thời gian 19 năm khát danh hiệu, bằng việc dẫn dắt câu lạc bộ giành chiến thắng ở cúp Nhà vua năm 1999. Sau đó ông được thay thế bởi Héctor Cúper, và ngay lập tức Valencia lọt vào trận chung kết cúp C1 đầu tiên trong mùa giải 1999-2000. Mặc dù vậy họ đã thua với tỉ số 0-3 trước kỳ phùng địch thủ Real Madrid CF. Ở mùa giải sau Valencia lần thứ 2 liên tiếp lọt vào trận chung kết cúp C1, lần này họ lại để thua trước Bayern Munich sau loạt sút penalty đầy may rủi.
Héctor Cúper rời câu lạc bộ vào năm 2001, và Rafael Benítez được đưa lên làm huấn luyện viên trưởng. Ngay mùa giải đầu tiên của mình 2001-2002, Benítez đã dẫn dắt câu lạc bộ đến chức vô địch La Liga đầu tiên sau 31 năm. Hai mùa giải sau, Valencia đoạt cú đúp khi Benítez giúp câu lạc bộ giành chiến thắng thứ 2 ở La Liga trong 3 năm đồng thời vô địch cúp UEFA thứ 3 trong lịch sử của câu lạc bộ.
Valencia đã khẳng định vị thế của mình trong bóng đá Tây Ban Nha với 6 chức vô địch La Liga vào các năm 1942, 1944, 1947, 1971, 2002, và 2004. Câu lạc bộ cũng sở hữu 8 chức vô địch Cúp Nhà vua Tây Ban Nha vào các năm 1941, 1949, 1954, 1967, 1979, 1999, 2008, và 2019. Ngoài ra, Valencia còn giành được 2 Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha vào các năm 1949 và 1999.
Ở đấu trường châu Âu, Valencia đã có những thành tích đáng nể. Họ từng 2 lần liên tiếp vào chung kết UEFA Champions League, thua Real Madrid vào năm 2000 và Bayern Munich vào năm 2001. Câu lạc bộ giành được 1 UEFA Cup Winners' Cup vào năm 1980, 3 chức vô địch Cúp Inter-Cities Fairs/UEFA Cup vào các năm 1962, 1963, và 2004. Valencia cũng sở hữu 2 UEFA Super Cup vào các năm 1980 và 2004, cùng với 1 Cúp Intertoto vào năm 1998.
Valencia Club de Fútbol sử dụng logo truyền thống với hình ảnh con dơi và các sọc màu trắng đen, thể hiện bản sắc văn hóa của thành phố Valencia và vùng Valencia.
Màu áo truyền thống của Valencia tại sân nhà là áo trắng với quần đen, trong khi áo sân khách thường có màu sắc đa dạng tùy theo từng mùa giải, nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của câu lạc bộ.
Valencia có những bài hát cổ vũ truyền thống được các CĐV hát vang trong suốt các trận đấu tại sân Mestalla, tạo nên bầu không khí sôi động đặc trưng của câu lạc bộ.
Real Madrid là một trong những đối thủ lớn nhất của Valencia, đặc biệt sau trận chung kết Champions League năm 2000 khi Valencia thua 0-3. Đây là cuộc đối đầu giữa hai câu lạc bộ hàng đầu La Liga.
FC Barcelona cũng là đối thủ truyền thống của Valencia trong các cuộc đua danh hiệu tại La Liga và các giải đấu khác, mặc dù Valencia từng đánh bại Barca trong chung kết cúp UEFA năm 1962.
Real Zaragoza có mối thù truyền kiếp với Valencia, đặc biệt sau trận chung kết cúp C2 năm 1964 khi Zaragoza đánh bại Valencia 2-1.
Valencia đã có nhiều nhà tài trợ khác nhau qua các thời kỳ, góp phần hỗ trợ tài chính cho hoạt động của câu lạc bộ và phát triển đội bóng.
Valencia được biết đến với biệt danh "Los Che" hoặc "Los Murciélagos" (Những con dơi), phản ánh biểu tượng con dơi trên logo của câu lạc bộ.
Năm 1992, Valencia CF chính thức trở thành một công ty cổ phần thể thao. Câu lạc bộ đã trải qua nhiều giai đoạn khó khăn về tài chính, đặc biệt trong những năm 1980 khi rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất dẫn đến việc xuống hạng.
Valencia mang đậm bản sắc văn hóa của vùng Valencia với truyền thống lâu đời và lòng trung thành của người hâm mộ. Câu lạc bộ luôn tự hào về di sản lịch sử và những thành tựu đã đạt được.
Sân vận động Mestalla với sức chứa 49.500 chỗ ngồi đã là ngôi nhà của Valencia kể từ năm 1923. Sân đã được mở rộng từ 45.000 chỗ ngồi ban đầu và trở thành một trong những sân vận động biểu tượng của bóng đá Tây Ban Nha, chứng kiến nhiều khoảnh khắc lịch sử của câu lạc bộ.
Mùa giải | Giải đấu | Thành tích |
---|---|---|
2021/2022 | Copa Del Rey | 🏆 Runner-up |
Giải đấu | Hạng | Trận | T-H-B | Điểm |
---|